Bệnh lậu ngày càng tiến triển phổ biến và tạo ra mối đe dọa cho toàn xã hội. Hệ lụy của bệnh lậu gây nên không dừng lại ở việc gây đe dọa đến tính mạng của người mắc bệnh mà căn bệnh còn còn có khả năng lây lan nhanh, nhất là rất dễ tái đi tái lại. Việc nghiên cứu về dấu hiệu bênh lậu và tác nhân bệnh lậu xuất hiện trở lại là cách để bệnh nhân có thể ngăn ngừa chứng bệnh xuất hiện trở lại sau quá trình chữa.

Bệnh lậu tái phát do đâu?

Lậu là một chứng bệnh xã hội do một dạng vi khuẩn có tên là Neisseria Gonorrhoeae(hay còn gọi là song cầu khuẩn lậu) gây nên. Vi khuẩn này ưa sống ở một số nơi kín đáo và ẩm ướt. Lậu chỉ lây truyền từ trường hợp này qua trường hợp khác và mối nguy hại mắc bệnh của tất cả mọi người là như nhau.


Lậu mủ kèm theo các căn bệnh như giang mai, sùi mào gà, mụn rộp sinh dục, HIV – AIDS là một số chứng bệnh xã hội nguy hiểm phổ biến nhất thời điểm này. Chúng đều có sức phá hoại cơ thể không nhỏ, gây tác động đến tâm lý của bản thân người mắc bệnh, gia đình và xã hội. Đặc biệt bệnh lậu nếu không được nhận ra kịp thời và sử dụng chua benh lau nhu the nao thích hợp căn bệnh rất dễ chuyển sang giai đoạn lậu mủ mãn tính, gây khó khăn cho việc trị và bệnh rất dễ tái đi tái lại với một số nhân tố như sau:

Nguyên nhân gây bệnh lậu tái phát do người mắc bệnh không tuân theo yêu cầu chữa trị của bác sĩ đề ra

Tâm lý chung của bệnh nhân mắc lậu mủ thường hay rất mặc cảm, sợ bị đối tượng khác nhận thấy chính mình gặp phải mắc bệnh, vì vậy rất ngại đi kiểm tra và va chạm đối với người khác. Thế vào đó họ luôn tìm biện pháp trị lậu tại nhà bằng các liệu pháp dân gian hoặc xem thường trong quá trình sử dụng kháng sinh chữa lậu do bác sĩ kê đơn. Diễn ra vấn đề này do tất cả bệnh nhân đều không nắm rõ được những biến chứng của bệnh lậu gây nên và họ hoàn toàn chưa biết rằng bệnh lậu có nguy hiểm đến sinh mạng không? bởi vì thế chỉ khi chứng bệnh xuất hiện các biểu hiện của lậu mãn tính thường các tác hại nguy hiểm thì mới thực hiện trị nghiêm túc. Điều này khiến cho lậu mủ rất không dễ chữa tận gốc, dễ xuất hiện trở lại còn có thể là gây nên hệ lụy vô sinh ở cả nam và nữ.

Lạm dụng kháng sinh trong quá trình trị

Dùng thuoc tri benh lau thường là biện pháp điều trị lậu phổ biến hiện nay. Tuy vậy liều lượng cách sử dụng như nào người mắc bệnh phải tuyệt đối tuân thủ theo hướng dẫn điều trị của bác sĩ. Nhiều đối tượng vì nôn nóng, muốn bệnh nhanh khỏi mà tự tiện tăng liều lượng kháng sinh. Điều đó là hoàn toàn không nên bởi cực kỳ có thể sẽ gây ra rất nhiều phản ứng phụ hoặc gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bệnh nhân, làm cho song cầu khuẩn lậu khó tiêu diệt và bệnh vẫn có nguy cơ tái đi tái lại.

Bệnh lậu có nguy cơ tái đi tái lại do không trị các biến chứng do căn bệnh gây nên

Bệnh lậu khi đã tiến triển sang thời kỳ mãn tính rất dễ gây các hậu quả như bệnh viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt, tinh hoàn bị đau,… Đây là một số căn bệnh viêm nhiễm rất phức tạp, cần phải được trị. Cộng với đó, nếu bạn không điều trị triệt để những chứng bệnh này thì nguy cơ tái phát bệnh bệnh lậu rất cao.

Không kết hợp chữa đối với bạn tình

Khá nhiều trường hợp chưa biết benh lau lay nhu the nao và bi benh lau kieng quan he bao lau. Do đó khi đã mắc bệnh lậu vẫn thực hiện giao hợp tình dục. Vì vậy trong quá trình trị, mặc dù bệnh nặng, nhẹ hay căn bệnh gần được chữa khỏi thì chúng vẫn có khả năng lây nhiễm rất cao. Đây cũng chính là nguyên nhân lậu mủ tái phát phổ quát. Cho nên, để ngăn ngừa bệnh lậu tái đi tái lại, người bệnh cần thiết phải được điều trị cùng với người bạn đời, giảm thiểu khuẩn lậu tái đi tái lại trở lại nặng nề hơn.

Lưu ý: Nếu bệnh lậu không được trị dứt điểm bệnh hoàn toàn có thể tái đi tái lại và gây khá nhiều hậu quả nguy hiểm như: Viêm nhiễm đường niệu đạo, tuyến tiền liệt, bệnh đau tinh hoàn, gây bệnh vô sinh, suy thận, nhiễm trùng máu, đe dọa đến tính mạng người mắc bệnh. Bởi vì thế, người bệnh nên đề phòng các nguyên do lậu tái phát kể trên. Đồng thời, khi có các biểu hiện lậu xuất hiện trở lại, bạn nên tìm đến các bệnh viện, phòng khám đa khoa tin cậy tại Hà Nội để được thăm khám và điều trị kịp thời, hạn chế một số biến chứng nguy hiểm có nguy cơ tiếp diễn.