Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi, suốt hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại đã phản ánh được đất nước Việt, con người Việt, đồng thời là ý thức của người Việt về tổ quốc, dân tộc. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước vĩ đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào quá trình đấu tranh này. Chính từ văn học trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại.

Tham khảo các bài viết sau:
+ các công cụ của chính sách tiền tệ
+ xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
+ đánh giá chất lượng dịch vụ khách sạn

Tam giáo đều từ Trung Quốc truyền vào nước ta, được truyền bá với sự xâm lược quân sự từ đời Hán, với chính quyền đô hộ hàng ngàn năm và với những lớp người Hán tỵ loạn sang Giao châu, mảnh đất lúc ấy yên ổn hơn nội địa. Những người Hán quan lại hay không phải quan lại, mang đến đây cả Nho giáo cả Đạo giáo (cả Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy). Đối với Phật giáo thì tình hình có khác. Nằm trên con đường biển từ Ấn Độ sang phương Nam và Trung Quốc, vùng ven biển nước ta đã biết đến Phật giáo từ trước. Cuối đời Hán, Luy lâu (Thuận Thành – Hà Bắc) đã là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh trung tâm Luy lâu còn ra đời trước cả trung tâm Bành thành và Lạc dương ở Trung Quốc [10, tr. 399], và về đường biển thì Phật giáo từ Việt Nam mà vào Trung Quốc. Thế nhưng đối với chính quyền và từng lớp trí thức thượng lưu thuộc người Hán vào mấy thế kỷ sau thì Phật giáo ở đây cũng đã phát triển theo ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc. Ở Trung Quốc từ Hán Võ đế đã tìm ra phương thức Nho Pháp tĩnh dụng cho việc trị nước, bảo vệ chế độ chuyên chế. Tư tưởng, học thuật trong tình hình đó cũng phát triển theo xu hướng dung hợp Hoàng Lão, Âm dương, Ngũ hành với Nho giáo. Nho giáo, được tôn làm quốc giáo, cũng đến đây mới bắt tay vào công việc hệ thống hoá: xác định thành phần kinh điển, xác định văn bản và giải thích chính thức các luận điểm. Gói hành lý tinh thần mà các nhà trí thức người Hán mang vào vùng đất mới Giao châu là hỗn tạp như vậy. Nhưng liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong đám cư dân vốn giữ nguyên tổ chức công xã với những phong tục, tín ngưỡng của mình? Và nền học thuật đó quan hệ như thế nào với Phật giáo đã có thời gian trước để bám rễ vào nhân dân? Điều đáng chú ý là Nho giáo tuy vào sớm và chắc chắn được bộ máy thống trị ưu tiên truyền bá – chứng cớ là những điều sử sách ghi chép về sự nghiệp của Nhâm Diễn, Tích Quang, Sỹ Nhiếp – thế nhưng trong thực tế thì nó phát triển chậm, chậm so với Phật giáo và Đạo giáo. Mãi đến thế kỷ XI, nhà Lý mới xây dựng Văn miếu, tổ chức thi cử. Tuy vậy các vua nhà Lý và cả Trần nữa, vẫn tìm chỗ dựa chính ở Phật giáo. Từ giữa thế kỷ XV Nho giáo mới thành độc tôn, chi phối mọi mặt hoạt động. Nói độc tôn là nói Nho giáo thay Phật giáo, nhà nho thay nhà sư trong đời sống chính trị nhà nước, còn trong xã hội thì Phật giáo, Đạo giáo vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân.

Nho giáo vốn không phải thuần nhất, có hệ thống chặt chẽ, càng về sau, khi đồng chức năng ý thức hệ chính thống, để giải đáp nhiều vấn đề thực tế và ứng phó với các học thuyết khác (nhất là Phật giáo) Nho giáo lại càng phải vay mượn, dung hợp nhiều hơn. Nhà Nho, nhất là nhà Nho từ Đường Tống về sau, càng ít thuần nhất; trong họ thành phần tư tưởng Âm dương, Lão Trang, Phật thường là không nhỏ. Thứ Nho giáo được truyền bá vào và có ảnh hưởng nhiều ở Việt Nam là thứ Nho giáo hậu kỳ. Trong lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc từ thời Xuân thu, Chiến quốc cho đến đời Hán, việc học tập kinh điển tiến hành theo lối sư truyền trực tiếp, ảnh hưởng khó rộng rãi. Sau nạn đốt sách của nhà Tần, triều đình nhà Hán mới sưu tập lại kinh điển, đặt các chức bác sĩ ngũ kinh để giảng dạy và tiến hành với quy mô to lớn và lâu dài việc xác định thành phần kinh điển, văn bản và nội dung kinh điển. Đến đời Hán Linh đế (Hy bình năm thứ 4) mới chọn định bản khắc vào bia đá, dựng trước nhà Thái học[3, tr. 117]. Qua một thời gian loạn ly dài, nhất là do tình hình phân tranh Nam Bắc từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, ý kiến đã trở thành rất phân tán. Đường Thái Tông lại sai Khổng Dĩnh Đạt cùng một số người khác soạn Ngũ kinh chính nghĩa để thống nhất kinh điển[3, tr. 198] một lần nữa. Từ Hàn Dũ (768 – 824) đời Đường đến đời Tống có một xu hướng khôi phục lại Nho giáo đối lập với Phật giáo và Đạo giáo – với ý nghĩa là tôn giáo – kết tinh lại thành học thuyết Tống Nho với tên tuổi nổi bật là Chu Hy (1130 – 1200). Về mặt lịch sử tư tưởng, ở đời Tống, Trình Chu không phải là phái duy nhất, cũng không phải là phái tiến bộ nhất. Nhưng ảnh hưởng của học phái đó ngay từ đời Nguyên ở phương Nam đã rất lớn. Đến đời Minh mà giòng họ trị vì là con cháu Chu Hy thì cách giải thích kinh điển của Chu Hy được coi là chính thống. Năm 1414 Minh thành tổ giao cho Hồ Quảng biên soạn Tính lý đại toàn, trình bày học thuyết Tống nho[3, tr. 281].

Trong lịch sử tư tưởng nước ta thứ Nho giáo đời Hán, đời Đường chắc cũng có vào nước ta nhưng ảnh hưởng chắc chỉ hạn chế trong đám người Hán di cư. Còn Tống nho thì do sự tiếp xúc khá mật thiết của nước ta dưới thời Lý Trần với phương Nam Trung Quốc, do sự đô hộ của nhà Minh nên ảnh hưởng nhanh chóng và rộng rãi hơn. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Năm Kỷ Hợi (1419). Mùa xuân. Tháng hai. Nhà Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện âm chất, Miếu thuận sự thực cho Nho học các phủ châu huyện” (T. Đ.H. gạch dưới)[4, tr. 7]. Đến năm 1435 nhân có phái đoàn sang chúc mừng vua Minh lên ngôi, vua nhà Minh lại “ban sách Tứ thư đại toàn mới in xong.”[4, tr. 111] Cũng cần nhắc đến chiếu định khoa thi của Lê Thái Tôn năm 1434 và quy định môn thi “kỳ thứ nhất một bài kinh nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài.”[4, tr. 91] Tách hai thiên Trung dung, Đại học trong Lễ ký thành sách, phân chương mục, chú thích và đưa hai quyển điển như Ngũ kinh là việc làm của Trình Di và Chu Hy. Đến thời Nguyên Nhân tôn (1312 – 1320) thì Tứ thư thành kinh điển dùng cho việc thi cử[3, tr.278]. Ở nước ta năm 1396 cũng bắt đầu “theo phép thi của nhà Nguyên.”[2, tr.9] Cũng cần nhắc thêm là trước đó Chu Văn An (… – 1370) đã soạn Tứ thư thuyết ước. Từ đó cho đến thế kỷ XIX uy tín của Trình Chu trong việc giải thích kinh điển là tuyệt đối.

Nói Nho giáo được độc tôn không có nghĩa là Phật giáo, tư tưởng Lão Trang và Đạo giáo bị phủ định. Về mặt nội dung, Tống nho là một hệ thống hỗn hợp Nho Phật. Về mặt vai trò xã hội hầu như đã thành sự thoả thuận với nhau giữa Tam giáo về một sự phân công, phân vùng. Nho giáo dành toàn quyền trong việc học hành thi cử – với ý nghĩa đào tạo nhân tài cho bộ máy nhà nước.Trong các địa hạt khác như xã hội, văn học nghệ thuật tín ngưỡng… Tam giáo song song tồn tại. Có những địa hạt, có những địa phương Nho giáo không phải là có thế lực nhất. Trong một con người – kể cả nhà Nho – về mặt người dân, họ chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, nhưng về mặt con người, về đạo đức, tín ngưỡng, cách sống… nhiều khi họ chịu ảnh hưởng Phật hay Lão Trang còn nhiều hơn.